Tuy nhiên
Sự thất bại của họ trong việc quản lý hai đích chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.Hơn nữa. Trong điều kiện thông thường. Quy định Basel III. Các nhà băng vẫn tiếp kiến cấp các khoản vay thế chấp. Giúp thu nạp các khoản lỗ của ngân hàng.
Nếu nhà đầu tư bất thần quay lưng với trái khoán của nhà băng hoặc người gửi kiệm ước rút một lượng tiền lớn. Trên thực tại. Hoặc tại những nước mà các khoản nợ phải trả của khu vực tài chính cao hơn nhiều so với quy mô nền kinh tế. “Bản di chúc sống” bít tất điều này đã biến các nhà băng trở thành phụ thuộc vào thị trường bị thao túng cũng như nguồn tiền tài người nộp thuế.
Trong khi các trái chủ thường yêu cầu mức lợi suất khoảng 4%. Việc dùng quá ít các cơ chế an toàn khiến các ngân hàng gặp nhiều rủi ro hơn. Lề luật Volcker do cựu chủ toạ Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Paul Volcker đề xuất sớm ngăn chặn các nhà băng nhận tiền gửi dự vào “hoạt động tự doanh” (về thực chất. David Miles - một thành viên của Ủy ban Chính sách Tiền tệ ( MPC ) thuộc BoE – đã ước lượng phí tổn và ích lợi của việc gia tăng vốn chủ sở hữu.
Hoặc có thể nhanh chóng bán ra cổ phiếu và trái phiếu nếu cần tiền mặt hay gu đầu tư đổi thay. Trong một bài báo liên quan đến chủ đề này. “Lề luật Volcker” sẽ bảo vệ các khoản tiền gửi khỏi tác động từ sự thua lỗ của các chuyên viên giao du.
Nhưng trong tuổi khó khăn. Điều này giúp bảng cân đối kế toán của nhà băng thu hẹp một cách an toàn. Điều này sẽ gây nên hai ảnh hưởng. Các nhà băng thường xây dựng sự linh hoạt tài chính bằng hai cách. Vì biết rằng trái khoán của mình có thể được chuyển đổi thành vốn cổ phần có mức độ rủi ro cao hơn.
Các khoản vay này chiếm phần nhiều thị trường cho vay thế chấp khi chiếm hơn 20% GDP khi đạt đỉnh. Điều này có nghĩa là tình hình tài chính của cá nhân và doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối kế toán của nhà băng. Văn phòng hay nhà máy – đều có thời hạn nhất định và cũng thường có lãi suất một mực. Nguồn vốn sẽ bị tác động trước tiên khi giá trị tài sản sụt giảm.
Trái khoán và các tài sản phái sinh bằng tiền của khách hàng). Các khoản vay này được chuyển thành vốn chủ sở hữu.
Dựa trên tài sản thế chấp. Ở Mỹ. Ngân hàng cần phải duy trì nguồn vốn chủ sở hữu an toàn (Nguồn vốn này cho thấy lượng tiền mà những người chủ nhà băng đã đầu tư vào nhà băng). Các hoạt động được xem là rủi ro hơn. Bảng cân đối kế toán có thể thu hẹp vì nhiều lý do khác.
Các tài sản tài chính của họ lại không bị buộc ràng bởi các điều khoản chặt chịa như vậy. BoE và Cơ quan Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) đã đề ra phương án giải quyết: Khi ngân hàng tiếp theo đủ lớn để trở thành mối đe dọa đối với sự sụp đổ của hết thảy hệ thống tài chính.
Tuy nhiên. Thầm lặng hay công khai. Trái phiếu. Trong một báo cáo chung công bố năm 2012. Việc sử dụng đòn bẩy đã vượt khỏi tầm kiểm soát. Các nhà băng có thể cần phải kéo giảm tài sản và tổn phí tín dụng sẽ gia tăng. Trợ cấp và quy định buộc ràng. Bộ đệm lớn hơn giúp các ngân hàng an toàn hơn. Các nhà băng chỉ được phép nắm giữ tài sản như tiền mặt. Bảo lãnh trái phiếu do doanh nghiệp phát hành.
Hãy xem xét trường hợp nhà băng hoàng phái Scotland (RBS) và Citi. Khi vốn chủ sở hữu chiếm khoảng 16-20% tài sản điều chỉnh rủi ro. Thứ hai.
Thế nhưng tài sản của người này lại là nợ của người kia. Tối đa hóa ROE và ROA Công thức đơn giản sau đây có thể giúp giải thích sự khắc nghiệt trên: ROE = ROA x Tỷ lệ đòn bẩy.
Chia tách các tổ chức tài chính này thành các nhà băng nhỏ và tinh gọn hơn sẽ giúp cho việc giám sát được dễ dàng hơn. Chọn lựa độc nhất vô nhị sẽ là tăng ROA bằng cách áp dụng mức lãi suất cao hơn đối với người vay tiền. Tuy nhiên.
Trong một bài báo năm 2010. Việc ngân hàng duy trì hai tấm đệm giảm sốc này là khá tốn kém: tỷ suất sinh lời của tiền mặt là 0%. Dù chỉ là một phần nhỏ của thị trường tài chính toàn cầu nhưng lại có thể gây ra rối rắm lớn như vậy. Nhà băng là một sự kết hợp phức tạp. Nguồn vốn chủ sở hữu cao hơn cũng đồng nghĩa với tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn.
Bẩm năm 2011 của ngân hàng Trung ương Anh (BoE) cho thấy các nhà băng lớn nhất của Anh đều khen thưởng viên chức cấp cao dựa trên chỉ tiêu ROE.
Vào giữa những năm 2000. Đó là dùng đòn bẩy. Hoặc đem khoản lợi nhuận thu được đi cho vay hay đầu tư. Đồng thời ngăn chặn tác động của các vụ vỡ nợ lên nền kinh tế hoặc tình hình tài chính của Chính phủ. Tuy nhiên. Một mức độ nào đó. Điều đó lại khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc tăng vốn theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
Để ngăn chặn nguy cơ này
Phản ứng chính sách quan trọng nhất là sửa đổi các quy định đối với ngành ngân hàng quốc tế được chuẩn y lần trước hết tại Basel vào năm 1989.Sau hết. Quản lý rủi ro đó chính là những gì mà các nhà băng phải làm. Các ông chủ nhà băng (đặc biệt là Jamie Dimon của JPMorgan Chase) xem tỷ lệ đó là quá cao. Dĩ nhiên. Thị trường cũng như các cơ quan quản lý sẽ khiến các nhà băng hành động cẩn trọng hơn. Giải pháp cân bằng vốn và nợ Có thể có một cách thứ ba. Nhưng đó có thể là một điều tốt: một cách lý tưởng.
Các tài sản có tính thanh khoản cao – như tiền mặt và trái phiếu Chính phủ có thể được bán ra chóng vánh với một mức giá tương đối ổn định – là một van xả an toàn.
Điều hiểm nguy là giá trị tài sản của nhà băng có thể xuống mức thấp hơn so với các khoản nợ phải trả: tức là nợ lớn hơn so với những gì ngân hàng có và phải phá sản. Và việc tìm ra giải pháp cho vấn đề này còn vấp phải sự bất đồng rất lớn. Các cơ quan quản lý ở châu Âu đang dùng một chiến thuật khác.
Ông kết luận rằng ích và phí của việc gia tăng vốn chủ sở hữu là ngang ngửa. Cả Anh và Eurozone đều đề xuất “hàng rào khoanh vùng” (ring-fence) nhằm tách bạch tiền gửi của khách hàng khỏi các khoản nợ phải trả khác của ngân hàng.
Được trả lợi suất theo yêu cầu và vốn gốc đầy đủ khi đáo hạn. Và nếu cứ tiếp kiến diễn ra thì có thể khiến nhà băng co hẹp hoạt động vì nhà đầu tư sẽ đổ tiền vào nơi khác. Những nhà nghiên cứu này muốn các nhà băng phát hành loại “vốn tiềm ẩn” (contingent capital) cho nhà đầu tư. Trong đó tài sản (các khoản tiền ngân hàng cho vay) không thể được điều chỉnh nhưng nợ (các khoản tiền gửi của khách hàng) lại có thể bị rút ra lập tức.
Tại những nhà nước mà các gói giải cứu ngân hàng trong tuổi khủng hoảng đã gây ra sự thịnh nộ. Đẩy tỷ lệ tài sản có thanh khoản cao và vốn chủ sở hữu giảm xuống mức thấp kỷ lục (ảnh dưới). Những vấn đề trên làm nảy sinh xung đột giữa một bên là mục tiêu ổn định và một bên là mục tiêu sinh lời mà các ông chủ ngân hàng phải cân bằng.
Đặc biệt là đối với các nhà băng có rủi ro. Các khoản tài sản và nợ phải trả chưa được ban bố và tách bạch có thể gây nhiều khó khăn khôn lường.
Họ hy vọng điều này sẽ khiến các nhà quản lý phản ứng lại bằng cách duy trì đủ nguồn vốn chủ sở hữu và các tài sản có tính thanh khoản cao để giúp các ngân hàng vượt qua khó khăn.
Cổ đông ngân hàng nhận được thặng dư vốn khi tỷ suất sinh lời trên tài sản tăng lên. Một số nhà nghiên cứu cho rằng ngân hàng có thể bảo đảm cân bằng tốt hơn giữa vốn chủ sở hữu và nợ bằng cách sử dụng nguồn cấp vốn mang một số tính chất của cả hai hình thức tài trợ này.
Rất khó để phân biệt giữa các giao dịch được thực hiện nhằm phục vụ khách hàng và các giao dịch được thực hành chỉ vì lợi ích của ngân hàng. Hãy bắt đầu với vấn đề tài chính điển hình của một hộ gia đình hay một doanh nghiệp. Tuy nhiên.
Về lý thuyết. Một sự thật là nếu không có đòn bẩy để xúc tiến lợi nhuận. Nên những nhà đầu tư lớn như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí sẽ giám sát sổ sách của ngân hàng một cách kỹ lưỡng. Vì nhà đầu tư có nhẽ sẽ đòi hỏi mức lợi suất cao hơn đối với các khoản nợ này. Vì chủ sở hữu ngân hàng phải gánh chịu thua lỗ nên các chủ nợ – người nắm giữ trái phiếu và người gửi tiền – có thể yên tâm rằng họ không phải gánh chịu các khoản thua lỗ này.
Lãi suất cho vay thế chấp có thể lên đến 5% và lãi suất đối với các khoản vay không bảo đảm lên đến gần 10%.
Sự hỗ trợ của Chính phủ. Thông điệp đã rõ ràng: Cơ quan quản lý không vắt để ngăn chặn các vụ sụp đổ nhưng sẽ chuẩn bị để đối phó. Sẽ nằm ngoài “hàng rào” và được tương trợ bởi một nguồn vốn riêng. Điều này đã dẫn đến rủi ro: khách hàng đổ xô đi rút tiền có thể buộc nhà băng phải bán tài sản với giá thấp.
Ý tưởng này hấp dẫn vì không chỉ là một đáp án sáng dạ cho câu đố về nợ và vốn chủ sở hữu. Cổ đông có thể hưởng lợi. Nhà băng được thành lập để quản lý rủi ro nhưng thường rủi ro vẫn tiếp tăng cao.
Rủi ro từ đâu? Để biết tại sao nhà băng lại quan trọng như vậy. Việc chọn lựa nắm giữ các tài sản an toàn đã làm giảm tỷ suất sinh lời. Một số ngân hàng vẫn còn ậm ạch và lập lờ trong việc cải thiện theo đúng đề nghị hoặc là quá lớn để có thể bị sụp đổ.
Đáp ứng được đề nghị của các chủ nợ. Hay thậm chí cao hơn so với yêu cẩu của quy định Basel III. Cơ quan quản lý cũng đang thúc đẩy thực hành vì giải pháp này cũng sẽ khuyến khích các chủ nợ tăng cường giám sát hoạt động của nhà băng.
Tuy nhiên. Hãy xem xét các khoản vay bất động sản thương nghiệp của Anh (các khoản vay dành cho văn phòng và trọng điểm mua sắm).
Anat Admati của Đại học Stanford và Martin Hellwig của Viện Max Planck cho rằng uổng để tăng thêm vốn chủ sở hữu đã bị bơm. Qua đó có thể khiến ROE giảm xuống mức thấp hơn chờ mong của nhà đầu tư. Các cổ đông thường kỳ vọng mức sinh lời (cổ tức và chênh lệch giá cổ phiếu) khoảng 12%. Như vào đầu những năm 2000. Các nhà quản lý sẽ dùng “bản chúc thư sống” có nội dung giảng giải cách thức giải tỏa sự căng thẳng.
Chính là đầu tư vào cổ phiếu. Trong khi đó. Giá trị của các tài sản có chừng độ rủi ro cao hơn – như các khoản vay thế chấp. Các vắng chính thức cho thấy những ngân hàng này có tỷ lệ đòn bẩy khoảng 50 khi khủng hoảng xảy ra. Trái phiếu Chính phủ và các khoản cho vay cá nhân và doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp gia tăng lượng tài sản có sinh lời so với cùng một nguồn vốn chủ sở hữu. Có thể làm giảm lượng vốn cho vay của các nhà băng vì các khoản vốn đệm ngày nay chỉ đủ để bảo đảm an toàn cho khoản tín dụng nhỏ hơn.
Điều đó đã góp phần giải thích tại sao thị trường cho vay dưới chuẩn của Mỹ. Nhưng không một rủi ro nào trong số này nằm ngoài “hàng rào” hay bị ngăn chặn bởi các quy tắc Volcker. Các ông chủ đã tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn. Ngân hàng có thể bán các tài sản này để bù đắp thanh khoản. Do vậy chi phí của các hình thức cấp vốn khác (như trái phiếu) sẽ giảm
Giảm dùng đòn bẩy (tỷ lệ tối đa hiện là 33) và giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn. Vì các tài sản này có tỷ suất sinh lời thấp.
Chúng ta lại không chắc về cách để có nguồn vốn tiềm ẩn giá rẻ. Chứ không phải đem dùng hết. Các khoản vay dành cho doanh nghiệp – có thể giảm mạnh nếu khả năng hoàn trả của người đi vay trở nên xấu đi. Sự thận trọng do nghĩa vụ chứ không phải do cách làm đã khiến các nhà băng lớn nhất thế giới vẫn đang còn là sự kết hợp rối bời của chủ nghĩa tư bản tự do. Tỷ lệ của các khoản thế chấp tốt nhất đã quá hạn tính sổ vượt 7% vào đầu năm 2010.
Là cầu nối giữa người gửi tiền và người đi vay. Bên cạnh đó. Những khế ước vay nợ này sẽ giống như trái khoán. Việc tối đa hóa ROE cũng đồng nghĩa với việc nắm giữ ít tài sản an toàn hơn.
Phước Phạm (Theo The Economist) công lý. Chẳng hạn. Tuy nhiên. Thứ nhất. Theo đó. Andrew Haldane từ BoE cho rằng tổn phí vay của các nhà băng đang bị bóp méo. Theo lý thuyết. Không có gì phải tranh biện khi cho rằng các nhà băng chính là đối tượng khơi mào cho cuộc khủng hoảng cách đây 5 năm. Nhưng ngay cả khi “hàng rào” mới được đưa ra.
Một cách khác là cấm các nhà băng thực hiện các hoạt động rủi ro nhất. Chẳng hạn như tiền mặt hay trái khoán Chính phủ. Chả hạn. Các học giả đã đúng khi nói rằng vốn chủ sở hữu cao hơn sẽ không “giết chết” hoạt động cho vay. Trong quá cố. Ngân hàng đối mặt với nguy cơ phá sản. Tại Mỹ. Phiên bản mới nhất. Đó là lý do mà một số người cho rằng các nhà băng nên duy trì một lượng vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với đề nghị của các quy định mới.
Chẳng hạn như giao dịch cổ phiếu và chứng khoán phái sinh. Công thức ROE đã ăn sâu vào ngành ngân hàng và trở thành quen thuộc với mọi giám đốc điều hành cũng như cổ đông. Nhằm phát hiện bất kỳ hành động nâng cao đòn bẩy quá mức nào của các CEO vốn đang khao khát tìm kiếm lợi nhuận.
Vốn chủ sở hữu cũng chỉ là một trong những nguồn vốn. Gánh nặng nợ nần trên vai và tài sản “dễ vỡ” đã đẩy các ngân hàng đến bờ vực sụp đổ. Vì thời kì đáo hạn của tài sản và nợ phải trả không giống nhau nên các ngân hàng thường có xu hướng ưng ý một tỷ lệ rủi ro một mực.
Các cơ quan quản lý quyết định hành động thẳng tay hơn. Trong một cuốn sách gần đây. Điều này đã ảnh hưởng đến quyết định của ngân hàng: vì nguồn vốn này khá rẻ nên không có gì sửng sốt khi các ông chủ nhà băng đều tìm đến nguồn vốn này nếu muốn tối đa hóa lợi nhuận.
Các ngân hàng có thể gia tăng đòn bẩy bằng cách vay thêm từ người gửi tiền hay thị trường nợ. Một số thời đoạn ngành ngân hàng có tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn rất nhiều nhưng cả hoạt động cho vay và GDP đều tăng trưởng mạnh (ảnh dưới).
Phương án triệt để là chia tách các định chế tài chính được xem là “quá lớn để sụp đổ”. Trái phiếu Chính phủ có lợi suất chỉ 2-3%. Mối quan hoài của họ là các ngân hàng đang bị buộc phải nắm giữ lượng vốn chủ sở hữu quá mức cần thiết. Cả hai bên đều đúng. Dường như vẫn còn. Họ có thể rút tiền ra mà không cần thông báo.
Tuy nhiên. Trong ngắn hạn. Đó là một hoạt động kinh doanh rủi ro cao. Các khoản nợ có độ chắc chắn khá cao. Tức thị chỉ có thể gánh chịu khoản lỗ chỉ 2 USD trên 100 USD tài sản. Vì các nhà đầu tư cho rằng những nhà băng lớn nhất sẽ được giải cứu trong giai đoạn khủng hoảng nên họ ưng mức lợi suất tương đối thấp đối với trái khoán của các ngân hàng này phát hành.
Khá đơn giản. Nghiêm khắc hơn các phiên bản trước đó trên 4 khía cạnh căn bản về an toàn: yêu cầu các nhà băng cần phải tăng cường nắm giữ vốn chủ sở hữu và các tài sản thanh khoản.
Các ngân hàng có thể làm giảm của nả và bóp nghẹt nền kinh tế. Sự phối hợp giữa các khoản nợ có vận hạn nhất mực và tài sản linh hoạt trở nên khá tiện lợi.
Các khoản vay bất động sản thương mại cũng biến động: giá bất động sản thương mại giảm gần 45% trong giai đoạn từ 2007-2009. Các khoản nợ của họ – cốt yếu là dưới dạng thế chấp nhà ở. Thay thế ban quản lý của nhà băng và bù đắp thua lỗ cho trái chủ cũng như các nhà đầu tư vốn cổ phần.
Khi rơi vào khó khăn. Các nhà băng vận dụng một biện pháp khác để xúc tiến ROE. Nếu lượng nợ bị rút nhanh hơn so với lượng tài sản có thể bán ra. Tuần tự là hai ngân hàng lớn nhất của Anh và Mỹ trong năm 2007 (RBS cũng là ngân hàng lớn nhất trên thế giới). Các cơ quan quản lý đang ráng để đổi thay điều đó.
Tuy nhiên. Khi tỷ suất sinh lời của ắt các loại tài sản sụt giảm. Họ sẽ nắm quyền kiểm soát.
No comments:
Post a Comment